NHỮNG LỜI YÊU THƯƠNG

 

I-     Trích Sổ tang ngày 25/4/2008

 

Lê Đạt

Lê Đạt

Bến Âu Lâu, “Bóng chữ” đậu chân cầu

Sông Thao mang chiều về biển cả

 

Lê Đạt

Lê Đạt

Ba mươi năm đau đớn ngọc nhằn

Hồ Tây vẫn mướt xanh “Bóng chữ”

 

Lê Đạt

Lê Đạt

“Phu chữ” một đời

Trượng phu một người

Lê Đạt!

Trần Nhương

 

… như anh vẫn thường hài hước, để đón nhận sự ra đi cuối cùng và ở lại vĩnh viễn cõi bất tử.

                                                                                     Đỗ Lai Thúy

 

“ Bạn phần lớn đều đã thay địa chỉ”…

Nay đến lượt Thầy,

                              có khổ con không!

                                                                  Hữu Việt

 

 

MỘT TRÍ TUỆ ĐỘC LẬP

MỘT NHÂN CÁCH KHÍ TIẾT

                                                        Phạm Hồng Sơn

 

                                                                                                      

“Bóng chữ” người đi còn để lại

“Ngó lời” vang vọng một đời thơ

                                                                           Phạm Xuân Nguyên

 

Thế là từ nay vắng hẳn nụ cười bất tuyệt của anh, nụ cười thanh lọc quý giá có khả năng giải tỏa mọi cay đắng và đem lại cho người khác niềm vui, lòng yêu sống và sự tin tưởng vào CON NGƯỜI.

Vĩnh biệt anh!

                                                                           Nguyễn Huệ Chi

 

 

 

Người đã đến bên dòng suối

cười

suối ngấn lệ Giải oan

 

Cả đời chèo thuyền ngược dòng hận

 gọi tên sông là Thương

 

Người đi bộ quanh Hồ Gươm

đo nhịp đời bằng đồng hồ huyết áp

tim solo và nhịp chân vocalise

nhịp nhàng

điệu valse khúc khích

 

Ngồi trên tàu tư duy

Vận tốc ánh sáng

Người cược với tương lai

 

Cũng có thể

khi chăn bò, Người nói với chúng

bí mật của “sách”

 

Con bò nhạy cảm

có thể hiểu sự trong sạch của cỏ

không nên bị tiêu hóa bình quân.

 

Có thể,

Người cười vang

khi hiểu cú chơi khăm danh vọng

sự đểu giả trí thức

sự tráo trở tư cách

sự hiền triết lặng im

 

Khi tôi vấp

Người đỡ tôi bằng tiếng cười đau

 

Tôi thành công

Người lo lắng

 

Giờ đây,

“Vườn vẫn thức một mùi hương đi vắng”

 

Mùi hương sang trọng

Hàm ngôn

                                                                                                                                             Phan Huyền Thư

 

 

Bác đi để lại một khoảng trống quá lớn!

                                                                                     Phạm Tường Vân

 

Vô cùng đau đớn vĩnh biệt Lê Đạt, nhà thơ lớn của đất nước, người đã can trường đi qua mọi sóng gió và oan khuất của cuộc đời với sự dũng cảm đến thanh thản tuyệt vời.

                                                                           Nguyên Ngọc

 

Mong anh mỉm cười trên cao

                                                                  Bùi Như Hương

 

 

Nhớ một Người đi tìm chữ

                                               cho mọi người.

                                                                                      Lê Chức                                                           

                                     

Tên anh gắn với phong trào dân chủ hóa hào hứng nhưng bi đát của chúng ta.

                                                                                                                                                      Lại Nguyên Ân

 

Thương anh, người phu chữ.

Ai ngờ hôm nay phu đòn khiêng phu chữ ra đi.

                                                                                     Xuân Cang

 

Đau đớn lắm anh ơi!

                                                        Hà Khánh Linh

 

 

              II -  Những bài viết  in trong Phụ lục ĐỐI THOẠI ĐỜI VÀ THƠ

 

 LÊ ĐẠT-Thượng Đế biết tôi lên nhầm tầu

Nếu ông còn trên dương thế, ngày 10/9 này, ông sẽ cùng bạn bè mừng sinh nhật lần thứ 83, nhưng có hề chi, trong lòng những người yêu mến ông, nhà thơ Lê Đạt chưa một ngày đi vắng.  http://k16toanco.info/sites/default/files/CD%20nha%20tho%20Le%20Dat.jpg

 

Với kẻ hậu sinh như tôi, cái tên Lê Đạt trước tiên gắn với một vụ án văn chương đau lòng trong quá khứ, từ thủa tôi chưa có mặt trên đời.

Cứ tưởng cái thời “chữ nghĩa nhiều khi cũng giết người” ấy mãi mãi chẳng buông tha ông, nhưng tôi đã lầm to, tự ông, ông đã buông những ký ức buồn đau ấy từ bao giờ.

Lần tôi tìm gặp nhà thơ Lê Đạt là khi ông nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007 chỉ bởi một lý do đơn giản “trên đời này tôi ghét nhất sự thù hằn”.

Trái với hình dung của tôi về một nhà thơ anh minh quắc thước, vẻ ngoài của ông hiền hậu, xuề xòa như một lão nông vừa từ làng ra phố.

 Trong ngôi nhà ở phố Phó Đức Chính ông sống cùng con cái- vẫn chật chội những đồ bỉm, giấy vệ sinh, quần áo trẻ em- một mặt hàng kinh doanh truyền thống gắn với “cửa hàng Lê Đạt”, ông trò chuyện cùng tôi, chân thành, cởi mở như thể tôi không phải là một đứa trẻ ranh mới giắt lưng vỏn vẹn một nắm chữ nghĩa nghèo nàn chưa đủ “vắt mũi bỏ mồm”.

Đến giờ tôi vẫn nhớ đôi mắt lúc nào cũng hấp háy cười của nhà thơ Lê Đạt, đôi -mắt- không-tuổi làm ông trẻ trung vô cùng và cũng phản chiếu một trí tuệ uyên bác vô cùng. Thật kỳ lạ, sau chừng ấy những cú chơi ác của số phận mà Lê Đạt vẫn giữ cho mình một nụ cười thiền của Phật Di Lặc, làm cho ta khi soi vào chợt thấy quên hết những bụi bặm, tẳn mẳn, nhỏ nhen.

Nhưng Lê Đạt vẫn nói với tôi, ông đã từng có lúc thấy sợ sự cô đơn của một người xa xứ ngay trên chính quê hương mình, cái thời điểm một buổi sáng thức dậy, ông đang là người tử tế bỗng nhiên trở thành một thằng hủi, bạn bè hôm qua tay bắt mặt mừng, hôm nay nhìn thấy từ xa đã nhanh chóng “đổi vỉa hè”.

 Nỗi chua xót ấy còn cùng cực hơn khi cả vợ con ông, những kẻ vô tội đáng thương bị liên lụy, ông đã viết: “Có những ngày chán nản/ Tôi muốn đi thật xa/Không muốn nhìn/không muốn nghe/không muốn viết/Có những ngày/tôi chỉ còn muốn chết/Nhưng thương vợ/thương con/yêu tiếng Việt/Tôi không đành đi”.

Tôi nghĩ lúc ấy, chính tình yêu tiếng Việt đã tiếp sức cho Lê Đạt, cho ông một cơ duyên để tách đời và thỏa thuê lặn ngụp trong dòng sông mát lành của chữ nghĩa, hưởng trọn vẹn những phù sa mà không phải ai cũng có dịp may trong đời. Thủa ấy, Lê Đạt nghèo kiết xác, bị tước đoạt tất cả, bị dí xuống tận đáy nhưng ngược lại, ông được toàn quyền sống với quãng đời bị ngắt ngọn, bị “mồ côi tuổi trẻ” ấy của mình.

Là tỷ phú thời gian, ông trao tặng mấy chục năm đời mình cho các thư viện để nhận về bao nhiêu tinh hoa tri thức nhân loại. Hồi ấy, Lê Đạt thoải mái “tiêu hoang”, ông kể, đã từng dành ra tới non nửa năm để trăn trở dịch hai câu thơ kiệt xuất của Patrice de la Tour du Pin: “Xứ sở không một manh truyền thuyết/Co ro nằm chết rét ngoài đường”.

Chính vì có những tháng năm trải nghiệm, vật vã trên cánh đồng chữ ấy mà Lê Đạt xứng danh với cụm từ “người cách tân”, “người sang trang” trên thi đàn Việt Nam. Suốt những tháng năm “lang thang trang lần quê chữ tìm mình”, ông đồng cảm với Andre Breton ở nhận định “chỉ những chữ nảy mầm mới đích thực là chữ” để rồi nguyện trở thành một người đi tìm những vỉa chữ mới cho tiếng Việt.

 Chữ trong thơ ông không phải là những con chữ ngoan ngoãn xuôi dòng phục tùng một lối đi truyền thống, mà nó luôn được đặt chông chênh và đầy gợi mở ở những ngã ba, bởi vì chính Lê Đạt đã từng thú nhận với lòng: “trong những phẩm chất của nghệ sĩ, dễ thương nhất là sự- biết- kháng -chỉ”.

Ông là một người thơ vĩ đại nhưng chưa bao giờ xem mình là người vĩ đại, ông thương yêu lũ “đầu xanh tuổi trẻ” , ông khuyên họ đừng gọi món “bi kịch” cho những trang viết của mình bởi khi dấn thân vào con đường chữ nghĩa là đồng nghĩa với bi kịch rồi. Họ sẽ buộc phải đánh đổi sự bình an để lấy những giấc ngủ nhọc nhằn, vật vã còn đáng thương hơn cả một kẻ bất lương.  

Nhưng Lê Đạt lại khích lệ lớp trẻ hơn ai hết, khích lệ một cách đẹp đẽ và tuyệt vời khó ai có thể vượt qua khi ông nói: “Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đang đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường, hướng thiện những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn... Cổ nhân nói: “Con người là sinh vật của những khoảng xa”. Thơ chính là tiếng nói của những khoảng xa đó”.

Bao nhiêu ngày đã qua kể từ khi ông rời xa bạn bè sau một chuyến đi thực tế ở Tây Nguyên cùng tạp chí Tia Sáng - nơi ông để lại một dấu ấn không thể phai mờ, nhưng trong lòng những người yêu mến ông, ông chưa một ngày đi vắng. Câu đoản ngôn cuối cùng ông viết trước khi đột ngột qua đời, lạ lùng thay, vừa hóm hỉnh vừa uyên minh về Thượng đế - một nhân vật luôn khiến ông trăn trở: Các đấng cứu thế có một thiếu sót đáng trách là dẫn dắt đám đông đến thiên đường mà quên không hỏi ý kiến của họ”.

Và tôi tự hỏi, không biết trước khi dẫn Lê Đạt lên thiên đường - xứ sở chắc chắn có tên  ông, Thượng đế có hỏi ý kiến ông không, ít ra là để sửa chữa lỗi lầm như Lê Đạt có lần từng nói: “Thượng đế biết tôi lên nhầm tàu” và phát cho ông một chiếc vé để ra khỏi “Tuổi lú lẫn, ngược nhầm ga trẻ dại/Hay ngây ngơ không biết lối về già/Tha thẩn chữ ngã ba…”.

Trong những năm tháng đắng cay, Phùng Quán đã phải vịn câu thơ mà đứng dậy, Trần Dần thương cho những chân trời không có người bay, Hoàng Cầm nuôi hoài giấc mơ lá diêu bông còn Lê Đạt, ông tựa vào một câu thơ của Walt Whitman. Ông nói những con chữ trượng phu và ấm tình đồng đội của Walt Whitman đã bầu bạn với ông đẵng đẵng những năm tháng đơn độc nhất của nghiệm sinh:

Bạn muốn tìm tôi/Hãy tìm tôi đế giày của bạn/Đâu đây tôi vẫn đứng tôi chờ...

Thật vĩ đại và khiêm nhường biết bao, hãy tìm ông nơi đế giày của bạn, trước mỗi cuộc lên đường...

Ôi, bác Lê Đạt của tôi! 

http://k16toanco.info/sites/default/files/CD%20nha%20tho%20Le%20Dat%201.jpg

Mi An

LỜI TIỄN BIỆT

Nhà thơ Lê Đạt, một nhân cách cao đẹp, một trong vài tài năng lớn của thơ ca Việt, đã đột ngột ra đi sau một hành trình nhiều khúc quanh, sóng gió.

Trong kháng chiến chống Pháp, Ông làm việc ở Ban tuyên huấn Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Khi hòa bình về trên nửa nước, Ông tiếp tục hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật. Cùng với một số trí thức, văn nghệ sĩ, Ông đã kiên trì đòi hỏi xây dựng một môi trường tự do cho sáng tạo, cho sự phát triển lành mạnh của nền văn hóa nghệ thuật nước nhà. Và rồi Ông đã trải qua một khoảng thời gian không dưới 30 năm im lặng cách biệt với công chúng do cái mà Ông hài hước gọi là “tai nạn nghề nghiệp”. Trong suốt 30 năm đó, Ông không ngừng làm công việc “phu chữ” nhọc nhằn của mình để đi đến một Lê Đạt ở tầm cao hiền triết hơn, vượt lên những đau khổ của phận người để đạt được tới những chiều kích nhân bản bao quát cả đạo và đời.

Ngôi nhà Tia Sáng thật may mắn khi được Nhà thơ Lê Đạt đến và gắn bó mật thiết từ những ngày đặt viên gạch đầu tiên. Cùng với nhiều nhà khoa học, văn hóa có uy tín ở trong và ngoài nước, Ông đã góp phần quan trọng xây dựng Tia Sáng trở thành một diễn đàn trí tuệ và đầy tâm huyết của trí thức trong công cuộc chấn hưng đất nước.

Trong hơn 10 năm qua, chúng tôi đã có niềm vui lớn được sống gần gũi Ông, học được ở Ông ý thức tôn trọng sự khác biệt, tinh thần dân chủ thẳng thắn trong trao đổi học thuật. Ông đã truyền năng lượng sống, niềm đam mê sáng tạo bất chấp tuổi tác cho mọi thành viên của tòa soạn Tia Sáng.

Trong giờ phút chia tay Ông ở ga cuối của cuộc đời này, chúng tôi - những người thân của Ông trong gia đình Tia Sáng - dường như vẫn thấy Ông ung dung tự tại trước mọi đảo điên của thời cuộc; vẫn nghe rõ giọng nói nồng nàn, tiếng Ông cười sảng khoái hồn nhiên- đặc hiệu Lê Đạt- trong các buổi gặp gỡ sáng thứ bảy của gia đình Tia Sáng, các buổi tọa đàm, hội thảo...

(Trích Lời tiễn biệt của Hoàng Thu Hà, Phó TBT phụ trách
Tạp chí Tia Sáng, tại lễ tang Nhà thơ Lê Đạt)

 

 

Thư gửi Bố

Kim đồng hồ đã nhích sang ngày thứ sáu. Chỉ còn 6 tiếng nữa là mẹ con con sẽ phải tiễn Bố đến nơi an nghỉ cuối cùng!

Con ngồi gom góp lại những dòng chữ đầy yêu thương kính trọng của các bạn văn, các độc giả trong và ngoài nước mà Thành, nhà con vừa tải về từ Internet dành tặng Bố. Con xin gửi tất cả làm lộ phí dọc đường để Bố có cớ “thơ thẩn chữ”. Bố sẽ lại bật cười ha hả, sảng khoái trách rằng “Chị cứ quan trọng!”.

Con biết đó là lúc Bố rất vui và con hi vọng bố sẽ thấy ấm áp hơn nhiều trên con đường độc hành mà bố đang theo đuổi.

Bố ơi, mẹ con con xin lỗi đã không hiểu hết Bố, đã có những phiền trách đối với Bố.

Con cũng đã “báo cáo” lời xin lỗi của Bố trên Vietnamnet với mẹ vào đúng ngày bố đột ngột xa mẹ con con. Chắc Bố lại “xấu hổ” đến nỗi không thể trực tiếp nói với mẹ chứ gì? Điều đó sẽ an ủi được mẹ nhiều hơn khi Bố “lang thang trang lần quê chữ tìm mình”, phải không Bố?

Bố ơi, lúc xa bố rồi, con mới thật thấm câu tuyên bố có phần “huênh hoang” của Bố khi Bố nhướng mày cười cười “Ngoài xã hội, tao có vẻ cũng là một nhân vật có “số” thế mà trong nhà hình như chẳng được coi ra gì?”.

Con đã “dân chủ” một cách sai lầm, bĩu môi, phán rằng: “gần nhà gọi Bụt bằng Anh, mà Bố?”.

Bố ơi, trước mặt con đang là “Cửa hàng Lê Đạt” in trên Tiền Phong cuối tuần số 17 chưa ráo mực mà Việt vừa mang đến. Bố đã khai trương từ năm con chào đời mà đến lúc con bạc đầu 50 mới có khách đấy Bố ơi!

Bố vụng về của con ơi, ông chủ vụng về của “Cửa hàng Lê Đạt” ơi, văn hữu đã can sao Bố chẳng nghe lời? Sao Bố cứ mãi cặm cụi gạn đục khơi trong, cặm cụi ngây thơ trong phép luyện đan cho đá sỏi thành người? Phải chăng trong cô đơn cõi chữ, Bố đã đạt được đạo Thiền “Di Lặc”? Và Bố muốn truyền tất cả sinh lực của mình, biến những vật vô tri vô giác thành những con chim biết sải cánh, thành những con người biết nghĩ suy?

Bố đã truyền hết sinh lực, hay nản lòng bỏ cuộc chơi hả Bố?

Dẫu sao tâm nguyện của Bố, lời tha thiết yêu cầu của Bố đã được chứng nghiệm:

Vũ trụ ơi

            tha cho tôi

Tất cả những gì

            thơ tôi chưa làm được

Khi tắt thở

            mắt tôi đừng ai vuốt

Còn gì buồn hơn

            màn đóng lại mục đời./

3h15 ngày 25-4-08

Con gái yêu Bố

Đào Phương Liên

 

Cổ tích Hà Nội

Lý Lan

Tôi khóc. Ngày hôm qua khi mở thư nhận được lời báo tin của Ban biên tập Tạp chí Tia Sáng. Tin bất ngờ, cảm xúc bất ngờ, nước mắt trong veo rơi, như khi tôi đang ở xa quê nhà chợt nghe tin một người bà con đột ngột mất. Tôi đã nghe lời ông coi Tia Sáng như một gia đình mà ông là biểu tượng của đoàn kết, của chuẩn giá trị. Hôm nay anh Văn Thành gọi điện vào nói sinh thời “chú Lê Đạt” đã quan tâm và yêu quý tôi thế nào, tôi cố gắng không khóc trong điện thoại. Tôi cũng sẽ cố gắng không khóc trên trang giấy. Mặc dù ai có thể làm gì khác hơn khóc khi biết trong cái cõi mình tiếp tục ngược xuôi không còn nữa một người mình chân thành quý mến và được biết người đó cũng quý mến mình?

Một ngày sau khi ông ra đi. Hai ngày sau khi ông ra đi. Rồi sẽ nhiều ngày sau khi ông ra đi, người ta sẽ vẫn còn nói về ông và thơ ông. Người ta nói là ông vẫn còn đây, với tiếng cười giữa bạn bè, trong bóng chữ, và tình yêu thơ. Nhưng chính ông thì không còn nữa, ở cõi đời này. Cuộc hẹn Sài Gòn vĩnh viễn lỡ. Và Hà Nội, với tôi, trở thành cổ tích. Từ nay, tôi biết mình sẽ bắt đầu kể chuyện Hà Nội bằng câu: “Ngày xưa Hà Nội có nhà thơ Lê Đạt...”.

Ngày xưa Hà Nội có một gian nhà nhỏ trên một con phố nhỏ, cả nhà lẫn phố bừa bộn hàng hóa và lô xô kẻ bán mua. Từ trong nhà và phố ấy hiện ra một tiếng cười hồn hậu, một giọng nói nồng nàn, một con người giản dị, một nhà thơ. Hà Nội từ lần đầu gặp gỡ ấy, với tôi, là nơi nhà thơ dẫu bản thân bị vùi dập, bị cố tình lãng quên, bị đảo điên trong bão tố thời cuộc, vẫn giữ được cho đời thế giới thơ trong ngần và tươi sáng.

Ngày xưa Hà Nội có bãi cỏ nhung trong khuôn viên một tòa đại sứ lộng lẫy kiến trúc Âu Tây. Một đêm trăng sáng nơi đó mở tiệc đãi văn nhân. Giữa những xun xoe phô diễn, không ít kẻ bẹo hình bẹo dạng tự rao mình, không thiếu kẻ vờ ra vẻ thế này, thế nọ, có một người ung dung tự tại, cười nói hồn nhiên, đối xử với viên chức ngoại giao được trọng vọng nhứt nơi đó không vồn vã hơn đối với một “cây bút trẻ” địa phương hãy còn ngơ ngác quan sát và chiêm nghiệm nhân cách những “tên tuổi lớn” mình mới gặp lần đầu. Hà Nội ngày ấy, với tôi, là nơi giữa gạch đá xà bần ngổn ngang của đền miếu đổ vẫn còn toát lên thần phách ngàn năm văn hóa trong hành xử của nhà thơ Lê Đạt.

Ngày xưa Hà Nội có tòa soạn Tạp chí Tia Sáng, vợ chồng tôi đến chơi, ngồi quanh bàn trò chuyện văn chương âm nhạc, tôi thấy từ phó tổng biên tập đến nhân viên tòa soạn đều trân trọng ý kiến “cụ Lê Đạt”, có vẻ như “cụ” mới là người tổng chỉ huy ở đó, kể cả việc tổ chức một chuyến đi thăm chùa cổ quanh Hà Nội cho chúng tôi. Chồng tôi gặp “cụ” lần đầu, có nhận xét “cụ” có một tâm hồn Việt Nam (như hình dung của anh qua nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam). Tôi kể cho anh nghe tóm tắt thăng trầm đời “cụ”, anh xúc động, kính trọng vô cùng một nhân cách Việt Nam. Tôi vừa báo cho anh tin buồn, anh thảng thốt kêu lên: Không!

Không!

Có những điều đã là quá khứ trong cuộc sống hôm nay, có những người sẽ là bất tử trong di sản cho tương lai, và có những quy luật tự nhiên mà kiếp người không tránh khỏi, nhưng nỗi đau mất mát này không sao đè nén được, không sao chấp nhận được ngay.

“Chú Lê Đạt, chú đã bảo cháu, chúng ta là một gia đình, cháu xin phép chú cho cháu mang một vành khăn tang, cháu giữ lại nỗi buồn này, giữ lại những điều chú dặn dò, xin chú bình an thanh thản ra đi.”

Lê Đạt - “Miền khí hậu” riêng biệt

Nguyễn Bỉnh Quân

Biết ông từ lâu nhưng tôi vẫn bị bất ngờ khi Lê Đạt bảo tôi làm bìa cho tập Bóng Chữ. Tôi tìm bản rập một hoa văn gốm Trần trên giấy dó, nhờ anh Đỗ Huy chụp rất kỳ công cho được cả những tầng bóng đổ nhòe như sương khói của các “tín hiệu thị giác” cổ kính và mộc mạc kia. Bìa xấu, NXB không ưng nhưng ông nhất định đòi in. Tập Bóng Chữ gây ra một cuộc tranh luận lớn về thơ, ngôn ngữ và thi pháp. Các bài viết in thành một tập dày để tham khảo. Tôi cũng viết một bài về tập thơ mà tôi cho là rất “lạ” và đẹp này.

Sáng 15-4 vừa qua, ở trang trại Ma Đ’răc, vì cùng mệt không vào rừng chơi, tôi may mắn được đàm đạo về thơ và họa cùng lão thi nhân lần cuối. Lê Đạt thông tuệ minh mẫn và thẳng thắn tới (cuối) cùng. Ông bảo “Tranh Ph. thì thường nhưng Ngh. thì ghê đấy!” Ông bình luận về Picasso, Matisse và Toulouse-Lautrec như một nhà phê bình mỹ thuật thực thụ. Mái tóc húi “cua” bờm xờm lắc lư, cái miệng chúm chím trẻ thơ hóm hỉnh và đôi mắt biết cười thật minh triết hiếm hoi. Khó mà không bị bất ngờ trước các “phán xét” chính xác, gọn gàng, đánh “rụp” như những nhát rìu tạc tượng gỗ của Lão phu-chữ về một con người hay tác phẩm nào đó.

Tôi nói với ông về các nhà thơ tiếng Việt. Nhà thơ lớn, tập thơ lớn phải là những “miền khí hậu” riêng biệt. Ở đó kẻ hợp thì sảng khoái, khỏe khoắn, sung sướng, kẻ không hợp thì bức bối khó chịu, thậm chí sinh bệnh, kẻ chưa quen thì hắt hơi xổ mũi qua loa rồi quen dần và khám phá. Chỉ các “miền khí hậu” mới lạ mới thực sự mở rộng vương quốc của nghệ thuật, thi ca. Tôi nói mà không nịnh rằng nửa cuối thế kỷ XX có hai tập thơ tạo được miền khí hậu là Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm và Bóng Chữ của ông. Lê Đạt ảnh hưởng không nhỏ về thi pháp với nhiều nhà thơ già và trẻ nhưng học ông là rất khó.

Ông bảo: “Ngay cả chữ phu chữ nó cũng tự nhiên bật ra chứ ‘tao’ có nghĩ ra đâu!” Thơ, chữ là phải tự nhiên sinh ra chứ không học mà được, cố mà được. Có lẽ phu chữ là cái nghiệp, là cái hạnh ngộ giời cho với cái đẹp chứ không phải sự kỳ khu làm chữ, đẽo chữ, nung nấu, khuân vác chữ... Ai ngờ đó là cuộc đàm đạo cuối cùng, nơi rừng suối.

Lê Đạt, một nhà thơ lớn cuối cùng của thế kỷ XX của chúng ta vẫn mãi còn đây, để

“... trắng đầy cong khung nhớ

Mưa mấy mùa mây mấy độ thu

... bóng chữ động chân cầu.”

Sài Gòn 21-4-2008

 

Ngây ngơ không biết lối về già...

Phan Đình Diệu 

Anh Lê Đạt đã không còn nữa. Tôi sửng sốt biết tin anh mất mà không thể tin đó là sự thật. Bởi từ đã rất lâu tôi vẫn luôn quen với ý nghĩ là anh vẫn còn rất trẻ, như anh thường tự nhận:

Tuổi lú lẫn ngược nhầm ga trẻ dại

Hay ngây ngơ không biết lối về già...

Cái “lú lẫn” và “ngây ngơ” rất thật thà và đáng yêu cùng với tiếng cười luôn sảng khoái và tươi trẻ của anh, từ nhiều năm nay đã trở thành một nét đặc trưng cho sức sống của Tạp chí Tia Sáng, nơi quy tụ nhiều anh chị em tâm huyết với những thăng trầm của nền giáo dục và khoa học nước nhà. Trong cái tập thể thân yêu đó, tôi vẫn thường được bậc đàn anh “ngây ngơ không biết lối về già” Lê Đạt xem là “trẻ nhỏ”, và dành cho nhiều ưu ái. Có một dạo trong nhiều năm dài, thỉnh thoảng vào ngày chủ nhật, anh vẫn cùng anh Kiến Giang đạp xe đến nhà tôi chơi, chuyện trò thân thiết về đủ mọi thứ, từ thơ ca cho đến cuộc đời. Nhờ những lần gặp gỡ đó mà tôi đã được anh cho các tập thơ Bóng chữ, Ngó lời, tập truyện ngắn Hèn đại nhân, và do đó, được hiểu và dần dần yêu thơ anh. Tôi nhớ trong tập Bóng chữ, anh có kể chuyện một lần có người hỏi nhà thơ Mallarmé: “Ông định nói gì trong thơ?” Nhà thơ đáp: “Nếu biết định nói gì thì nói, việc gì phải viết thơ”. Lại hỏi: “Sao tôi nhiều ý hay mà làm thơ lại không hay?” Đáp: “Người ta làm thơ không phải bằng ý mà bằng chữ”. Và tôi dần hiểu được vì sao các nhà cách tân thơ như anh phải lao tâm khổ tứ đến vậy để chắt lọc cho được những “bóng chữ, ngó lời” mong góp phần làm trong sáng thêm, phong phú thêm vẻ đẹp của thơ Việt, tiếng Việt. Và để phát hiện cho được những “bóng chữ, ngó lời” như vậy, thơ phải là “một lạng cảm hứng cộng với một tạ mồ hôi”, như anh từng tâm sự trên báo Thanh Niên gần đây trước khi anh ra đi. Là người gần như suốt cuộc đời không tiếc sức cho sự nghiệp cách tân thơ, anh Lê Đạt cũng là người không ngừng suy nghĩ và đóng góp nhiều ý kiến có chiều sâu tư duy cho sự nghiệp chấn hưng và phát triển nền giáo dục và văn hóa của nước nhà.

Và nay, anh đã quyết ra đi. Xin tạ từ anh. Chúc anh thượng lộ bình an về nơi “Quê chữ”, hình như ở nơi đó, khoảng đầu đường hai mốt, anh có hẹn với ai đó từ lâu vẫn gắng đứng đợi anh, “Dù thắp sáng trời Một nguyên thảng thốt/Thư thả tình hương chữ cốm kỳ duyên”*.

* Lời thơ của Lê Đạt trong bài Hương chữ, tập thơ Ngó lời.

 

Học Lê Đạt

Phạm Duy Hiển

Lạm phát viết và nói đã đến mức gây ô nhiễm môi trường và đang móc túi cái quý giá nhất của mọi người: thời gian. Nên kiệm lời, kiệm chữ hẳn là nét văn hoá của những người tử tế thời nay.

Lê Đạt hết mực kiệm lời, kiệm chữ. Ông ít khi phát biểu ở những nơi chính thức, nài lắm mới nói đôi câu ngắn gọn, nghe qua có khi tưởng bâng quơ. Nhưng bên tách trà sáng thứ bảy ở Tia Sáng, ông luôn là người cầm chầu. Hăng say nói, mà vẫn kiệm lời, bởi những gì ông nói ra đều có lượng “bit” rất cao. Nghe ông, tôi cứ há hốc như đứa trẻ. Nhất là khi ông vận chuyện vào đời thường của các văn nghệ sĩ tên tuổi, hoặc lấy bút tích của các danh nhân ra làm minh chứng. Ông nói lại các danh ngôn đúng như những gì ông đọc được, không sai một chữ.

Có lần tôi tò mò: “Anh ít đi lại, ít có mặt ở những nơi sang trọng (cách nói của ông), sao anh lại biết nhiều chuyện, quen lắm người, mà toàn là các bậc danh giá cả?”. “Cậu biết đấy, mình đã từng là anh lính lệ mà. Vả lại ngày trước mình cũng đi lại nhiều, không như bây giờ”. Lúc khác ông lại nói thêm: “Cái thời bị hoạn nạn, thư viện khoa học là nhà mình, cắm cổ vào đọc. Từ hồi ấy, mình quen với Đặng Mộng Lân. Lân giúp mình dịch tài liệu để kiếm sống, lấy đủ bút danh để tránh phiền hà cho cả hai”.

“Khi gặp vận hạn tôi thường tìm đến sách như tìm đến những người bạn tử tế và trường kỳ tận tuỵ”, Lê Đạt nhắc chúng ta đừng quên cái vũ khí quan trọng này những khi chới với trong cuộc sống (xem: Einstein, dấu ấn trăm năm, NXB Trẻ và Tia Sáng, 2005). Tôi lại còn tin rằng những ý tưởng cách mạng trong vật lý hiện đại, như tính gián đoạn lượng tử, nguyên lý bất định, bổ sung, tính tương đối v.v..., mà ông tiếp thu được trong thời gian trên đã tác động hầu như quyết định đến thơ cách tân của ông sau này.

Tôi nghĩ cho dù nhét được vào bộ nhớ cả một bách khoa toàn thư, nào phải ai cũng biết cách bật ra đúng chỗ, đúng lúc. Lê Đạt chắc hẳn phải luyện được một bộ xử lý thông tin với công cụ tìm kiếm (search) rất mạnh. Ngày nay ăn thua chính là ở đó. Bộ xử lý ấy lại còn giúp người “phu chữ” lặn lội trong đống đông tây kim cổ, qua những mảnh sống bồng bềnh sau “tai nạn nghề nghiệp”, nhưng may mắn được bện lại nhờ những sợi tình không giăng đến người tình bởi ông quyết không làm phiền ai đó cõi đời... để đuổi theo chiếc bóng trong cõi chữ, đoản ngôn, từ tình mà cũng chính là tự tình, như ông thú nhận.

Người ta có thể sống hạnh phúc bằng tự tình chăng? Tôi chưa bao giờ dám có ý định hỏi Lê Đạt chuyện này. Nhưng tự tình với bóng chữ chắc hẳn phải là cách sống để ông có thể quên mà thanh thản, lấy đó làm nguồn cơn sáng tạo. Quen biết với Lê Đạt, tôi nghiệm ra ông quả như thế. Ông muốn cách tân thơ Việt như “mục đích quan trọng nhất của đời mình”, trân trọng lao động sáng tạo của mình, nhưng lại rất khiêm nhường, kiệm chữ, không muốn tỏ ra rằng những điều ông viết là sáng tạo. Khi cho ai sách, ông không đề tặng mà thường viết: “Bản này của X, Y, Z”. Với tôi, ông còn châm biến ghi lên trang đầu cuốn “U 75 Từ Tình”: “Bản của ‘thủ trưởng’ P D H”.

Vốn không xuất thân từ giới văn chương, tôi hân hạnh quen biết Lê Đạt dưới mái nhà Tia Sáng, nơi “dung thân” của giới khoa học lẫn văn chương nghệ thuật được nhiều người xem là “ngoại chính thống”. Vài giờ trước khi phiêu diêu vào cõi vĩnh hằng, Lê Đạt còn ngồi với chúng tôi trên chiếc Airbus từ TP. Hồ Chí Minh ra Hà Nội sau một hành trình dài 11 ngày qua miền Trung và Tây Nguyên. Ai cũng bất ngờ thấy Lê Đạt hăng hái và khoẻ mạnh đến kỳ lạ. Tôi ngồi bên trái, bên phải là Thu Hà và Văn Thành, hai trụ cột trong toà soạn Tia Sáng được Lê Đạt hết sức quý mến và chăm chút như bậc cha anh. Tôi tọc mạch hỏi Lê Đạt khi có niềm vui sáng tạo anh thường chia sẻ với ai, anh thực sự nghĩ gì khi nhận Giải thưởng Nhà nước... Tự nhiên ông bảo tôi: “Nếu Trời còn cho sống, mình sẽ viết nốt quyển sách nữa, nhưng không quá 300 trang, viết dài làm gì”. Nào ngờ đây là điềm báo trước một người sắp đi vào lịch sử và cõi vĩnh hằng.

 

 

 

 

 

 

Ông yên nghỉ nơi thung xanh reo vui

Phạm Văn Thiều

 

Thực ra cái tên Lê Đạt và một số đoạn trích các bài thơ của ông tôi đã biết từ đầu những năm 60, hồi còn học phổ thông. Vụ nhân văn giai phẩm ầm ĩ đến nỗi vang vọng tới cả cái trường cấp III nhỏ bé mới thành lập của chúng tôi ở một huyện đồng bằng Bắc Bộ. Lên đại học, dư âm của Vụ nhân văn vẫn còn dai dẳng, đặc biệt là ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ngay cả bọn sinh viên khoa học tự nhiên chúng tôi cũng được săn sóc rất kỹ lưỡng về chính trị tư tưởng. Quả thật, lúc đó tôi rất tò mò muốn đọc những tác phẩm nhân văn giai phẩm và đặc biệt muốn biết mặt những nhà văn nhà thơ này, nhưng không thể thực hiện được.

 

Phải mãi tới năm 1976. Dạo ấy tôi đang ôn thi nghiên cứu sinh. Do không có gia đình ở Hà Nội, nên hàng ngày tôi đều đến Thư Viện quốc gia ở phố Tràng Thi để học ôn. Một hôm, tình cờ tôi ngồi cạnh một dịch giả cũng đã đứng tuổi. Thực ra tôi cũng đoán vậy thôi vì tôi thấy ông đang dịch một cuốn sách bằng tiếng Pháp rất dày. Sau này tôi mới biết rằng ông là nhà văn N.C. Ngồi một lúc, tôi thấy ông đứng dậy và sau đó dẫn đến một người cũng cỡ tuổi ấy, nhưng có gương mặt phúc hậu và lúc nào cũng như đang cười. Thì ra ông N.C đang bí một đoạn và nhờ người này đến giúp. Qua câu chuyện của họ tôi được biết loáng thoáng cuốn ông N.C đang dịch viết về văn học dân gian, văn học của những người hát rong thời La Mã hay Hy Lạp cổ đại gì đó. Vốn thích văn chương từ bé, lại thấy câu chuyện cũng hay hay nên tôi giỏng tai nghe lỏm. Sau khi nghe nhà văn N.C. nói qua đoạn dịch của mình, người kia cười hiền bảo, cậu dịch thế thì sai bét rồi còn gì, rồi ông giảng một mạch và phân tích cho ông N.C biết đã hiểu sai như thế nào. Tôi phục quá, tự nhủ sẽ phải tìm mọi cách để biết cái ông rất uyên bác này là ai. Đợi cho đến lúc hết giờ, thấy ông thu dọn sách vở đem trả, tôi cũng vội vã bám theo luôn. Khi cô thủ thư trả thẻ cho ông, tôi đã liếc trộm được tên ông. Thì ra ông là nhà thơ Lê Đạt mà tôi mong muốn được gặp từ lâu. 

 

Trong thời gian học ở thư viện, qua bạn bè, tôi được biết cả nhà thơ Trần Dần và nhà triết học Trần Đức Thảo cũng thường xuyên đến làm việc ở đây. Tất cả họ đều đi bằng chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô, mà họ (hay người đời) thường gọi là xe Peugiout "con vịt". Từ hôm tình cờ được biết nhà thơ Lê Đạt, hầu như hôm nào tôi cũng chọn chỗ ngồi cạnh ông. Tôi vẫn còn nhớ hồi đó ông đang dịch một cuốn về hội hoạ Nhật Bản. Chúng tôi chẳng bao giờ trò chuyện với nhau, nhưng bao giờ lúc đến cũng như lúc về đều gật đầu chào nhau.

 

Bẵng đi một thời gian, cho tới những năm đầu thế kỷ XXI, tôi mới có dịp gặp lại nhà thơ Lê Đạt. Hồi đó tôi cộng tác nhiều với Tạp chí Tia Sáng, chủ yếu là dịch các bài báo khoa học của nước ngoài. Vào thời gian đó tôi cũng đã dịch một số sách phổ biến khoa học nổi tiếng của thế giới. Nhà thơ Lê Đạt có thể nói là một trong những "khai quốc công thần” của Tạp chí Tia Sáng nên tôi thường xuyên gặp ông ở đó. Vẫn gương mặt hiền từ và nụ cười nhân hậu thuở nào, ông nói ông có đọc mấy quyển sách tôi dịch và ân cần khuyên tôi nên kiên trì đi theo con đường đó, vì loại sách đó rất có ích và trong quá trình dịch em sẽ học hỏi được rất nhiều. Qua những lần chuyên trò ngắn ngủi ở Toà soạn Tia Sáng, tôi mới kinh ngạc phát hiện ra rằng, Lê Đạt đã đọc và hiểu biết rất nhiều và sâu sắc các vấn đề triết học của khoa học tự nhiên. Ông rất tâm đắc hai nguyên lý cơ bản của cơ học lượng tử, đó là nguyên lý bổ sung của Bohr và nguyên lý bất định của Heisenberg cũng như định lý về tính không đầy đủ (mà báo chí thường gọi là định lý bất toàn) của Godel trong lôgíc toán. Ông thuộc nhiều phát biểu nổi tiếng của Bohr và Einstein về hai nguyên lý này trong những cuộc tranh luận gay gắt của họ, những phát biểu mà nhiều người làm vật lý chuyên nghiệp cũng chưa biết tới. Tất nhiên, ông không hiểu nhiều về khía cạnh kỹ thuật của vấn đề, nhưng ông đánh giá rất cao tác động nhận thức luận của hai nguyên lý đó. Nguyên lý bổ sung giúp người ta hiểu rằng những cái đối lập (như sóng và hạt) không hề triệt tiêu, bài trừ nhau mà bổ sung cho nhau. Còn nguyên lý bất định đã có tác dụng xoá bỏ lối tư duy quyết định luận cứng nhắc giết chết sáng tạo. Có lẽ chính vì thế mà ở tuổi 80 tư duy của nhà thơ Lê Đạt lúc nào cũng mới mẻ và đầy những bất ngờ. Ông cũng đã từng vận  dụng tính gián đoạn trong vật lý lượng tử vào thi pháp của mình. Trong lần tham dự Hội thảo năm vật lý quốc tế 2005, do Tạp Chí Tia Sáng tổ chức ở Hội An, tôi đã từng được nghe ông đọc vài bài thơ theo tinh thần đó. 

 

Lại chợt nhớ đến nhà vật lý Đặng Mộng Lân, hồi anh còn nằm ở bệnh viện Việt Pháp, khoảng 10 ngày trước khi anh qua đời. Một lần đến chơi với nhà thơ Lê Đạt, tôi nói với ông, anh Lân ốm nặng lắm, chắc khó qua khỏi. Ông đứng lặng một lúc, rồi bảo, hôm nào rỗi em đưa anh đến thăm Lân, anh cũng rất quý nó. Trên đường đi, ông bảo tôi, hồi hoạn nạn, anh đọc rất nhiều sách triết học của vật lý, Lân nó đã giúp anh rất nhiều. Nhìn thấy nhà thơ Lê Đạt bước vào, anh Lân vui hẳn lên. Lúc đó, anh Lân cũng đã yếu nhiều, nhưng suy nghĩ và nói năng còn rất mạch lạc. Anh còn đọc cả mấy đoạn thơ "nổi tiếng" của nhà thơ Lê Đạt và say mê nói về ý tưởng vật lý của bài báo khoa học của anh vừa được đăng trên Modern Physics Letters, một tạp chí quốc tế có uy tín về vật lý.  Nhìn hai ông già ôn lại những ngày khốn khó mà tràn đầy niềm đam mê đối với thi ca và vật lý lòng tôi trào dâng một nỗi xúc động nghẹn ngào. Trước mắt tôi là hai biểu tượng của hai thế giới tưởng như hoàn toàn xa lạ, chẳng có quan hệ gì với nhau, nhưng thực ra lại có biết bao nét tương đồng, đó là thi ca và vật lý học.              

 

Năm 2001, GS Trịnh Xuân Thuận ở Mỹ có gửi cho tôi cuốn Một nhà vật lý thiên văn xem tôi có muốn dịch ra tiếng Việt không. Mặc dù cuốn sách được dựng nên từ cuộc phỏng vấn T. X. Thuận của một nhà báo người Pháp, nhưng phản ánh được nhiều nét tiểu sử và những suy nghĩ khá sâu sắc của ông về Vũ trụ, và tôn giáo, tôi đã dịch và nhờ nhà thơ Lê Đạt viết lời giới thiệu. Ông đồng ý và đã viết cho cuốn sách một lời giới thiệu thật hay và sang trọng. Hiện lời giới thiệu này được lưu giữ trên khá nhiều trang Web. 

 

Trước Tết Mậu Tý, tôi phải dịch gấp cuốn "Những con đường của ánh sáng" của Trịnh Xuân Thuận cho NXB Trẻ. Đầu cuốn sách Thuận có lấy bốn câu thơ của Rimbaud để đề từ. Tôi nghĩ ngay đến nhà thơ Lê Đạt. Tôi tin chắc những câu thơ kiểu này ông đã thuộc lòng từ thời trung học. Tôi gọi điện ngỏ ý muốn nhờ ông dịch giúp mấy câu thơ này, ông đã vui lòng nhận lời. Và qủa đúng như tôi nghĩ, ông bảo, bài này tớ biết từ hồi còn đi học, em cứ ngồi chơi, anh dịch ngay bây giờ cho em. Tôi ngồi im, chờ đợi. Thỉnh thoảng liếc qua thấy ông dập dập xoá xoá. Khoảng hai mươi phút sau, ông đưa cho tôi bản gốc với mấy câu thơ dịch ông viết ngay ở bên dưới. Lúc ra về, tôi rụt rè nói, em ghi tên anh vào đây nhé. Ông cười hiền từ, thôi, ghi vào làm gì. Rồi dặn, cứ tạm thế, nếu tối nay anh nghĩ ra cách dịch hay hơn anh sẽ gọi điện cho em. Thật không ngờ, đây lại là lần gặp cuối cùng của tôi với ông. Và mấy dòng thơ ông dịch cho tôi là di bút đầu tiên và cũng là cuối cùng của ông cho tôi.         

 

Chiều chủ nhật 20/4/2008, như có linh tính, hai bố con tôi dự định đến thăm ông và tặng ông cuốn "Những con đường của ánh sáng". Trước khi đi, tôi gọi điện đến nhà, thì con ông trả lời, bố em đi chơi xa, tối nay mới về. Thế mà, sáng hôm sau, Nguyễn Huy Thắng, con trai nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, gọi điện báo tin cho tôi nhà thơ Lê Đạt đã qua đời. 

 

Phàm khi một người, nhất là một nghệ sĩ, nằm xuống người đời thường nghĩ đến chuyện được mất. Sự nghiệp văn chương của nhà thơ Lê Đạt to lớn đến đâu, chúng tôi không dám bàn vì nó nằm ngoài tầm hiểu biết của chúng tôi. Nhưng có một điều chúng tôi biết chắc chắn: ông là một nhà thơ đích thực theo đúng nghĩa cao quý nhất của từ đó, người đã dũng cảm đi hết con đường thơ của mình với tất cả sự khổ đau và gian nan nhưng đầy kiêu hãnh của một phu chữ. Tôi bỗng nhớ đến bốn câu thơ của Rimbaud mà ông đã dịch cho tôi:

 

                                Đó là một hẻm xanh nơi con sông ca hát

                                Những mảnh bạc vung vãi nơi đầu cỏ

                                Đỉnh núi cao rực rỡ mặt trời

                               Đó là một thung xanh ánh sáng reo vui.

 

 Tôi thầm cầu chúc cho linh hồn ông được yên nghỉ ở cái thung xanh có tiếng rì rào của con sông, có màu xanh miên viễn của cây cỏ và nhất là tràn trề ánh sáng, thứ ánh sáng rực rỡ và thanh khiết của tự do mà ông đã suốt đời nâng niu và bảo vệ.  

 

ĐẠO LÝ ĐỐI THOẠI

Phạm Xuân Thạch

 

Đối thoại với đời và thơ là những băn khoăn và suy tư cuối cùng của Lê Đạt. Sau khi ông đã tìm sáng tạo trong Bóng chữ, đã Ngó lời, đã lật lại huyền thoại trong những Hèn đại nhân, Truyện cổ viết lại, và trong khi ông vẫn cứ đang miên man trong U75 từ tình. Đọc những suy tư ấy, có thể thấy hiện lên một chân lý được đúc kết từ suốt một cuộc đời khổ nhọc của ông: chân lý – đạo lý về sự đối thoại.

 

Di sản văn chương của Lê Đạt để lại không thuộc loại nhiều về số lượng nhưng có độ phong phú và sức nặng của trọng lượng nghệ thuật. Quan trọng hơn nữa, qua toàn bộ di sản ấy, người ta có thể hình dung được chân dung của một người lao động văn nghệ đích thực. Cái hình dung của A. Camus về người văn nghệ, một loại người đặc biệt, như homo habitus, homo sapiens có lẽ chưa đủ với Lê Đạt. Đành rằng, ông là một người văn nghệ đúng nghĩa, một nhà thơ đúng nghĩa, trong tình yêu vô bờ bến với con chữ, cái chất liệu bản thể của nghệ thuật mà ông theo đuổi, cái chất liệu bầu lên nhà thơ – như một câu nói mà ông vẫn yêu thích và được nhắc đi nhắc lại trong mấy bài viết của ông. Thế nhưng, để hình dung ra Lê Đạt, chỉ qua tình yêu chữ, qua cái phương diện người văn nghệ ấy, có lẽ vẫn là chưa đủ. Trong ông còn có một phẩm chất đặc biệt của người lao động. Tôi yêu quý và kính trọng vô cùng hình ảnh mà ông dùng để nói về công việc của nhà thơ: người lực điền lao động quần quật trên cánh đồng chữ nghĩa, đổ hàng bát mồ hôi để gặt lại một hạt chữ. Cái phẩm chất đáng quý đó đã hiện diện qua những Bóng chữ, Ngó lời, những Hèn đại nhân, Truyện cổ viết lại của Lê Đạt. Và phải đến những trang viết cuối cùng của cuộc đời Lê Đạt, một phương diện khác, dẫu đã từng bàng bạc trong những sáng tạo nghệ thuật của ông, mới thực sự hiện hình rõ nét: chân dung của một Lê Đạt – người trí thức.

Trong cơn lạm phát ngôn từ đang lan tràn trong xã hội ta ngày nay, nhiều khi người ta hay lẫn lộn các chuyên gia với những trí thức. Chuyên gia là một phẩm chất cần thiết của xã hội hiện đại lành mạnh và trí thức trước hết cũng cần phải là một chuyên gia. Nhà thơ cũng thế. Anh ta là chuyên gia trong lãnh địa mênh mông chữ nghĩa của mình. Thế nhưng phẩm chất chuyên gia lại chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ của một người trí thức. Thậm chí, nếu đóng đinh trong cái lãnh địa nghề nghiệp của riêng mình, người chuyên gia không thể trở thành trí thức. Một trong những phẩm chất hàng đầu của trí thức là khát vọng vươn vượt ra khỏi thế giới trí tuệ chật hẹp của riêng mình để tìm đến những vùng vô biên của chân lý. Những tiểu luận, đoản văn của Lê Đạt thể hiện rất rõ khát vọng này. Ông không chỉ thân thuộc với âm nhạc hay hội họa, những lĩnh vực rất gần với văn chương, mà ông còn là một trong số không nhiều những “người văn nghệ” ở Việt Nam tìm đến với những công trình khoa học cơ bản thuộc những lĩnh vực hết sức “khó nhằn” như vật lý lý thuyết. Tất cả đối với ông đều là những “người hàng xóm thân thiết” như tên một tiểu luận ông viết không lâu trước khi qua đời. Trong cuộc hành trình của mình trong văn chương Việt Nam hiện đại và đương đại, không nhiều lần, tôi bắt gặp một nhà thơ, xin nhấn mạnh, một nhà thơ, như Lê Đạt dám khẳng định một chân lý rất đơn giản: “Nhà khoa học không có tưởng tượng chỉ là một công chức khoa học thồ một khối kiến thức nặng nề trên lưng như “cái bướu của anh gù” (chữ của Nietzsche). Nhà nghệ thuật thiếu lý tính chỉ là một nghệ sĩ thứ phẩm mắc bệnh vĩ đại cũng cần chữa trị hoặc nên đổi nghề”. Thường khi, người ta bám vào những “cảm hứng”, “chất nghệ sĩ”, hay gì gì nữa để che dấu … cái bất lực của mình với tư cách nhà nghệ sĩ. Tất nhiên, ở Lê Đạt, những cuộc “vượt ngục” ra khỏi lãnh địa “chuyên gia chữ” còn có một khía cạnh đáng quý khác. Nó không chỉ là một cuộc lang thang dạo chơi hoặc một thú kiếm tìm “đồ trang sức chữ nghĩa” để cài lên thêm trang phục của mình. Đó là những cuộc tìm kiếm đích thực một cái gì đằng sau tất cả, đằng sau nghệ thuật, đằng sau khoa học.

Nhiều người thường định nghĩa trí thức là người tìm ra chân lý. Tôi cho rằng, việc tìm ra chân lý không đơn giản đến thế. Đành rằng có những trí thức tìm ra chân lý nhưng còn có cả những trí thức, nói như nhà thơ Dương Tường – “đứng về phe chân lý”. Và trong thế giới mà chúng ta đang sống, “đứng về phe chân lý” đôi khi cũng nhọc nhằn không kém “tìm ra chân lý”. Lê Đạt là một người như thế. Nhiều luận điểm của ông không phải là lần đầu tiên được nói ra. Ví như về chữ trong thơ, ví như về bản sắc dân tộc, về khoa học và nghệ thuật…. Thế nhưng, qua những gì Lê Đạt viết ra, ta thấy ông đã thực sự sống, trăn trở với những luận điểm đó. Ông đã làm cho những ý tưởng đó có một đời sống trong một thế giới ngôn từ với “vân chữ” riêng Lê Đạt. Là một nhà thơ, Lê Đạt đi đến tận cùng trên con đường hóa thân cho chữ của mình. Ông nói tuyệt hay về lẽ tương đối của cái gọi là chân lý: “Con người càng ngày càng hiểu rằng tri thức của mình là hữu hạn, rằng chân lý là một quá trình tiếp cận trường kỳ, chân lý luôn luôn trên đường đi và không có ngày Chúa nhật cũng như không có một công ty độc quyền chân lý”. Ông cũng nói tuyệt đẹp về thơ hiện đại, một thứ thơ “không phải một trường phái khép kín. Mà một trường phái mở. Nó được xây dựng trên một nhu cầu đối thoại triệt để. Một tinh thần bao dung “vô ngạn”. Và một tình bạn hào hiệp của những người đồng hành nghĩa”; về những nhà thơ “như Lý Bạch, Saadi, Goethe, Tagore, ở vào buổi chiều tóc bạc vẫn thu hoạch những mùa thơ dậy thì”; về một câu thơ mà đọc nó, “ta thường có cảm giác đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường hướng thiện đến những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn…”. Đọc tiểu luận của ông, cái đẹp không chỉ đến từ những phát hiện, những luận điểm mà từ những hình ảnh ngôn từ vô cùng độc đáo. Những “công ty độc quyền chân lý”, những “mùa thơ dậy thì”, những “thủng thỉnh đi vào bất tử”. Mọi chữ đều có chỗ trong thế giới của ông, từ những chữ cao siêu đến những chữ tầm thường, “bình dân”, “quê mùa”,.. và vào trong thế giới ấy, nó được hóa thân để lung linh trong những “công án” chữ tuyệt đẹp. Chữ không chỉ bầu lên nhà thơ. Nó còn làm nên nhà thơ. Khả năng tái tạo tất cả những chân lý, những luận điểm đôi khi đã trở nên quen thuộc vào trong một thế giới chữ độc đáo và đầy sức gợi, làm cho nó một lần nữa hiện ra như mới xuất hiện lần đầu chứng tỏ Lê Đạt sống với những chân lý ấy, hóa thân vào nó và, nói như một nhà Nho, “làm sáng cái đức sáng” bằng cách riêng của mình. Ông “đứng về phe chân lý” bằng cách ấy.

Và một người trí thức “đúng về phe chân lý” không chỉ bằng cách sống với chân lý mà còn bằng cách đánh động kẻ khác về chân lý. Theo tôi, trong một thế giới đầy những simulacre sản phẩm của truyền thông, đánh động kẻ khác về chân lý cũng quan trọng không kém tìm ra chân lý. Nhiều người đã nói đến một văn phong cô đọng đầy sức nén của Lê Đạt. Điều đó hoàn toàn đúng. Dẫu vậy, theo tôi, sức nén, sự cô đúc ngôn từ sẽ không là gì nếu thiếu một điều vô cùng quan trọng, khả năng phát hiện ra chân lý đằng sau những đối lập dưới cái nhìn của lôgich hình thức và dùng chính những đối lập ấy để tạo nên “cú sốc” tinh thần cho người đọc. Không chỉ trong những đoản ngôn mà trong cả tiểu luận của Lê Đạt cũng chứa rất nhiều những “cú sốc” như thế. Kiểu như: “Diva H. nổi dài dài mà không chìm vì cô biết lặn. Đó là phép Yôga của danh vọng”. Hay: “Đọc đâu đó ở Nietzsche: Tôi có một ý tưởng hay họ toan tính dung tục hóa chúng thành những chân lý”. Hay: “Hiền tài hay “hỗn” tài đều là nguyên khí quốc gia. Các nghệ sĩ nòi đều ít nhiều dính một trong tội: Tội kháng chỉ”. Với những đoản ngôn chứa đựng những mâu thuẫn đầy tính khai mở như thế, người thơ “một nắng hai sương, lầm lũi, lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ” giờ đây mang cả dáng vẻ của một thiền sư phát ra những “công án” có khả năng thức tỉnh.

Và cuối cùng, phẩm chất của một trí thức được thể hiện ở khả năng của anh ta dám đối diện với những vấn đề thực sự của nhân sinh. Khi một nhà vật lý phát minh ra năng lượng nguyên tử. Ông ta là một chuyên gia. Khi ông ta bắt đầu suy nghĩ về việc thứ năng lượng đó sẽ được sử dụng để làm gì, khi đó ông ta bắt đầu trở thành một trí thức. Xét theo “ba rem” đó, Lê Đạt có đủ phẩm chất của một trí thức đích thực. Điều đó thể hiện qua những băn khoăn của ông về người tài, về bản sắc dân tộc, về tham nhũng, về những người quản lý văn hóa…. Và trên tất cả, điều quan trọng nhất trong những gì còn lại của Lê Đạt là sau một hành trình vượt thân phận “chuyên gia thơ” để trở thành một trí thức của mình, sau cả một cuộc đời không thiếu khổ nhọc và đau khổ, sau những cuộc viễn du trên những miền đất mênh mông của tri thức, ông phát hiện ra một thứ chân lý  và cũng là một đạo lý: chân lý về sự khác biệt và sự đối thoại.  Dẫu là suy tư về các vấn đề xã hội, về tri thức hay về nghệ thuật, đều có thể đọc thấy trong ông một thái độ “căm thù” duy nhất đối với tình trạng lưỡng phân của tư duy, đối với thái độ triệt tiêu cái khác biệt, với sự cuồng tín và sự giản hóa. Chính ý thức và cái khác đã làm nên trong ông một thứ đạo lý đầy tinh thần bao dung chấp nhận cái mới, chấp nhận cái khác biệt, một thái độ đồng cảm với những thân phận cô độc đi tìm những “chân trời”.

Tất nhiên, sự bao dung, cái khác biệt và sự đối thoại là những chân lý vô cùng xưa cũ của thế giới hiện đại. Dẫu vậy, để nhận ra những chân lý vô cùng xưa cũ ấy, đôi khi người ta lại phải trả giá bằng những nỗ lực kinh người.

 

Tiếng cười Lê Đạt

Lê Thiết Cương

 

Tôi gặp nhà thơ Lê Đạt lần đầu năm 1985. Khi đó, tôi vừa rời bộ đội, loanh quanh ở nhà chả có việc gì làm, cậy là hàng xóm nên thỉnh thoảng hay mon men sang nhà “đại ca” Đặng Đình Hưng, chỉ mong được ông sai vặt. Gọi là việc vặt nhưng tôi lại thích hơn là nhiều việc to lớn ở nhà người khác. Buổi tối ấy, nhà “thầy” Hưng có tiệc rượu, tôi làm chân canh cổng, đón đưa các cụ. Toàn bậc maitre, nghe danh đã lâu nhưng đó là lần đầu được diện kiến, nhà thơ Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt. Khi lên cầu thang, nhà thơ Lê Đạt vừa cười vừa kể: hồi ở Việt Bắc, sếp Hưng oách lắm, ông ấy có một văn phòng trên đỉnh đồi, tớ dưới đơn vị, thỉnh thoảng cũng phải leo lên để hội ý thế này. Bữa làm bảo vệ sang trọng đó tôi nhớ mãi. 10h tiệc tàn, nhà thơ Trần Dần bảo “tiệc tàn xuân vẫn chửa sang cho”, tôi “dìu” bác Lê Đạt ra đến đầu phố, đợi mãi chồn chân vẫn không có xích lô (hồi đó chưa có xe ôm), lại đi bộ thêm quãng nữa. Tôi hỏi bác có mệt không? Ông chả nói gì chỉ cười phá lên. Đêm khuya, tiếng cười giòn tan.

Sau này, thỉnh thoảng tạt vào tạp chí Tia Sáng, lại hay gặp ông, lúc nào cũng thấy ông cười, tôi vẫn thường nhớ đến tiếng cười của ông cái đêm hôm đó. Tôi không thấy ông mệt, không thấy ông buồn bao giờ, vì ông hay cười hay vì cười để quên buồn, quên mệt? Thậm chí ông cười nhiều hơn nói. Ông nói to nhưng thường nói ngắn, vừa cười vừa nói, cười át cả nói. Cười dài nói ngắn. Tại sao tiếng cười chứ không phải tiếng nói lại là dấu hiệu của tư tưởng? Lại nhớ đến Ca Diếp chỉ cười chứ có nói gì đâu. Chả biết có phải do nói ít, nói ngắn hay vì lý do gì khác mà những thể loại ông ưa dùng cũng đều ngắn: truyện ngắn, thơ ngắn (thơ hai kâu), rồi đoản ngôn. Thậm chí bài tham luận của ông trong Hội thảo 20 năm Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới (tháng 5 năm 2007) cũng là bài ngắn nhất trong hơn 30 bài, ông vừa cười vừa nói vo trong khoảng 3 phút là hết. Thể loại chắc cũng thuộc tạng tính?

Cách đây hơn tháng, có dịp đi chơi cùng ông ở Hoà Bình, tôi tỏ ý tiếc vì lỡ làm trượt cái bìa cho tập U75 Từ tình của ông, ông cười cười bảo: sang năm tôi nhờ anh làm bìa U76 Từ tình, có gì mà tiếc. Tiếng cười phá lên của lần đầu gặp gỡ hơn hai chục năm về trước và không thể ngờ lần này với tôi lại cũng là lần cuối được nghe tiếng ông cười.

4. 2008

Lẽ Đất

Nguyễn Thế Trung

Tết gia đình xong, tôi qua thăm bác. Mà phải nói là đến tham quan bác mới đúng. Tết này bác có sách mới, thế là có thêm một “Bản của Trung” – lần này thì là Tr chứ không phải Ch. Tôi nói sách của bác tựa là “từ tình” mà là sách cứu người, những người đã nhầm lẫn và những người còn đang nhầm lẫn.

Đó là sự tình (cờ) của chữ, tôi chắc bao nhiêu mồ hôi đổ xuống cũng chỉ để được một mầm cây khỏe vươn lên mạnh mẽ, còn hoa trái đến đâu cũng còn tùy công sức của trời đất và người hái nữa.

Lâu nay tôi làm về kinh doanh và công nghệ, cái cốt lõi cũng chả khác gì nhau, chế ngự sự phức tạp để tìm ra điều đơn giản đúng. Khởi đầu bao giờ cũng là nhầm lẫn, kết thúc cũng được đôi điều đơn giản, nhưng đa phần lại là một nhầm lẫn mới. Đấy là hậu quả của tư duy cũ, tư duy “đối thụi”.

Phương pháp mới chấp nhận lẽ tự nhiên, người lãnh đạo không nao núng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan mà giữ được chính nguyên đến khi sự việc tự chuyển, lại là cách tốt nhất trong thời đại đầy biến động. Đó là phương pháp “đối thoại” chân thành với đích đến và với những đồng hành.

Lần đầu trước đông đảo cha chú toàn bậc trí thức lớn, tôi cũng run vã hết mồ hôi phát biểu “tôi mong muốn học được từ những người đi trước, phát triển và nhân rộng sự tử tế”, bác cười xòa “sống tử tế với nhau là khó lắm”, đơn giản thế thôi mà tôi tin mãi đến bây giờ.

Bác nói chuyện gì đó với chú Thành, rồi lại có cả chị từ Châu Âu về xin phép quay phim. “Tạp chí Pháp nó vừa đưa một câu mình thấy rất đúng, vật lý hiện đại bây giờ thú vị hơn, đẹp hơn nhiều”. “Bởi vì nó bất định”, tôi tiếp lời.

Chú Văn Thành nhắc tôi về việc bác được giải thưởng lớn, tôi tỏ ý chúc mừng. “Bọn trẻ nó bảo nhận làm gì, tôi bảo phải nhận, nhận quá đi chứ” và tất nhiên là đi kèm theo cái cười xòa. Tôi hiểu đây là một hành xử đối thoại chân chính và chợt nhận ra, biết đúng là thấu hiểu không chỉ hiện tại, tương lai mà cả quá khứ.

Lẽ Đất là những dòng sông, chảy qua bao biến cố mà không bao giờ chảy ngược như bác đã sống, cách của Lê Đạt.

 

Người sang trang - Lê Đạt

Dương Thụ

Anh Trần Dần gọi những người cách tân trong thơ là người vác cờ chữ, người có óc sang trang. Người sang trang Đạt không nhận mình là người vác cờ chữ mà tự nhận mình là phu chữ. Đó là điểm khác biệt giữa hai anh: một người dữ dội, một người nhún nhường. Nhưng cả hai đều là chủ tướng của nền văn học đổi mới ngoài chính thống, những thủ lĩnh trong bóng tối như cách nói của một số người.

Người sang trang Lê Đạt – một trong những người cuối cùng của thế hệ thơ cách tân đã ra đi, vĩnh viễn. Trần Mai Ninh, Thâm Tâm, Quang Dũng, Nguyễn Đình Thi, Đặng Đình Hưng, Phùng Cung v.v... thành người thiên cổ từ lâu. Chỉ còn Hữu Loan, Hoàng Cầm tuổi đã ngoài 80, sự sống mong manh như ngọn đèn trước gió. Chúng ta đang nhìn thấy qua sự ra đi của anh Lê Đạt cái chung cuộc của cả một thế hệ, thế hệ “những người bay không có chân trời”, một chung cuộc thật buồn.

Anh Lê Đạt sinh thời là một người nhẫn chịu, nhẫn chịu một cách hiền triết. Gần nửa thế kỷ tai ương khốn khó không làm tắt đi giọng cười Lê Đạt trong đời sống thường nhật, không làm mất đi cái trữ tình trí tuệ Lê Đạt trong thơ, không làm già cỗi cái đầu óc trẻ trung Lê Đạt trong suy nghĩ về thời cuộc, về nghệ thuật. Anh lấy được sự thăng bằng cần thiết để không rơi vào những cơn động đất tâm thần (chữ củaTrần Dần), luôn tỉnh, sáng suốt. Anh, một kẻ mạnh, một người hầu như không thể đánh bại.

Trong không gian sống rất chật chội anh đã làm một hành trình đáng nể, hành trình của kẻ nửa thế kỷ đi bộ quanh Hồ Gươm theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Sớm nào người ta cũng thấy Lê Đạt một mình vòng quanh Bờ Hồ, đi chậm thôi nhưng với cái mải miết của một kẻ độc hành. Suy nghĩ và đi tới. Và anh đã đi rất xa. Bọn tôi, thế hệ đi xe đạp, xe gắn máy tốc độ nhanh gấp nhiều lần, cũng có những người mải miết như thế, nhưng kỳ lạ thay, dù ở đoạn đường nào, lúc mở to mắt vẫn thấy anh Lê Đạt ở phía trước.

Anh là người tự nhiên, tự tại, tự do. Anh hiểu rõ lẽ tự nhiên phải thế. Không thắc mắc nhiều về cảnh ngộ của mình, nhìn thấy cái lý trong rất nhiều chuyện chúng ta cho là phi lý, rũ bỏ mọi ảo tưởng để tìm thấy ý nghĩa trong phút sống hiện tại. Anh không sắm vai, diễn xuất, không phun châu nhả ngọc, không lập lờ giai thoại, không đánh bóng mạ kền như nhiều nhân vật đương thời. Có rất nhiều giai thoại đẹp về anh: giai thoại thơ, giai thoại yêu, giai thoại sống nhưng Lê Đạt cười: “Nhảm nhí cả”. Anh cho rằng mình có nhiều khuyết điểm và cũng có những sai lầm nhưng rồi anh lại cười “làm gì có sự hoàn hảo, chỉ có tiến đến sự hoàn hảo. Là người thì cũng phải có ‘quyền’ phạm khuyết điểm, ‘quyền’ được sai chứ. Không có ‘quyền’ này thì thành thật thế nào được”.

Sống trong hoạn nạn anh không bi tráng đến mức phải “vịn câu thơ mà đứng dậy”, anh đứng vững trên đôi chân của mình, chẳng cần dựa dẫm vào bất kỳ cái gì mà vẫn tạo được một vị thế đáng nể, vẫn hấp dẫn, lôi cuốn bạn bè trí thức văn nghệ sĩ bằng cái tự tại của một đẳng người ưu tâm cao, tuệ và sáng tạo. Cái đẳng người này bao giờ cũng tự nhiên, tự tại. Tự nhiên tự tại đi đến tự do, cái tự do mà họ đạt tới thì không thể tước đoạt.

Người đi dép, ngủ gác xép gần như cả đời, sống ở phố ông già lười (Lãn Ông), nhẩn nha, nhẹ nhàng, bình dị nhưng thuộc loại người xưa nay hiếm, một đại trí thức, một thi sĩ tiền phong, và trên tất cả là một người cách mạng với đầy đủ ý nghĩa và vẻ đẹp của từ này. Người ấy đã ra đi vĩnh viễn.

 Bao giờ trở lại phố Lãn Ông, một thời xa xôi, để tìm lại giọng nói anh, tiếng cười anh, cái đôi mắt nheo nheo của anh, bao giờ...

TP. Hồ Chí Minh ngày 26-4-2008

THỢ KHAI MỎ

Hoàng Thúc Hào

Nhà thơ Lê Đạt một đời bận tâm chữ, kiên nhẫn chữ, mạo hiểm chữ, tột bực ham muốn phát lộ những vỉa quặng độc nhất chữ. Sở dĩ ông “lạc quan ngoan cố” làm thợ khai mỏ suốt đời vì một lẽ hiển nhiên: Trong ông đức tin bất biến vào “cái khác”, vào “quyền có cái khác” luôn thường trực hiện hữu.

Ông tin tưởng một xã hội mạnh, ngay thẳng phải đùm bọc, cổ súy những cá thể dám suy nghĩ độc lập, suy nghĩ khác. Lê Đạt dị ứng với những kẻ sống thứ sinh, thương xót những nghệ sỹ nửa mùa, chỉ sống bằng vốn trời cho hay vốn “phút giây xuất thần”. Ông yêu, trọng những lực điền nghệ sỹ.

Thường ngày Lê Đạt ít bận tâm tiền, ít bận tâm bánh vẽ mà bận tâm chữ. Ông khai mỏ mọi nơi, mọi lúc và tiêu quặng chữ. Trong mọi tình huống, bất phân trà dư tửu hậu hay chốn hội nghị, hội thảo cao sâu, ông tự tại an nhiên cùng ta, cùng người giao tiếp chữ. Hứng khởi dẫn dắt nhau vào cuộc thám hiểm những miền chữ không cùng, đấy là lý do nhiều người thích ông, mê ông, nghiện ông.

Phần tôi, từ lâu mò mẫm mã kiến trúc tự thân, từng thử và sai cái khả năng liên hợp, tự phát nghĩa giữa các thành tố quy hoạch kiến trúc. Ở đấy tôi có ông, thầm biết ơn ông.

“ Không tận xanh trời thở trắng thơ”

Ngày đi Buôn Mê Thuột, tôi bận vào sau nhưng nhất định muốn đưa ông ra sân bay. Chị Thu Hà nói: “Để mọi người gọi taxi”, ông bảo: “Kệ, nó mê chú  mà”. Đến sân bay, ông với lại: “Hào, sắp xếp vào sớm nói chuyện cho đỡ buồn”... Tôi biết, nhiều người còn muốn được cùng ông hạnh phúc trong những cuộc viễn du chữ, nhưng bao giờ...

Bởi hiện ông đã lạc tận “phố Bích Câu”, bên kia thế giới.

 

Tái bút: Khi viết những dòng này tôi nhớ bài Haikâu..., và vẳng đâu đây  như tiếng nhà thơ Lê Đạt cười: “Hào, viết dài làm ch... gì”

 

Nhớ anh– một nhà văn hóa

HẢI HOÀNH

 

Tôi biết tin nhà thơ Lê Đạt qua đời khi đang lướt trang web của BBC, hãng thông tấn nhanh nhạy nhất thế giới. Thật không thể tin vào mắt mình ! Chưa hề nghe tin anh ốm đau mà anh đã đột ngột ra đi, để lại bao nỗi thương tiếc cho chúng tôi, loại đàn em của anh. Mới hôm nào vừa gặp anh trong buổi liên hoan tất niên của báo Tia Sáng, lúc ra về còn có dịp may mắn đi cùng và trò chuyện với anh mấy phút; lúc chia tay anh cười “Về nhé!”.Không ngờ đây là lần cuối cùng tôi được thấy nụ cười giản dị, chân thành không ai có thể quên của anh.  

Tôi được may mắn quen nhà thơ là nhờ anh Văn Thành. Hồi đó anh Thành giới thiệu anh viết giúp tôi lời tựa bản dịch cuốn “Võ Sĩ Đạo – Linh hồn Nhật Bản”. Thi sĩ Lê Đạt 

tôi biết tiếng và hằng hâm mộ từ thời Nhân văn-Giai phẩm, ở trong một căn phòng chừng 6 mét vuông trên gác ba nhà số 9 phố Lãn Ông. Tôi không thể tưởng tượng anh có thể sống và sáng tác trong điều kiện như vậy. Ngoài cái giường đơn và một chiếc bàn nhỏ, khoảng trống còn lại xếp đầy những bao giấy chất cao đến tận trần nhà (tầng trệt là cửa hiệu bán giấy vệ sinh). Thế mà anh vẫn vui tươi, thân mật trò chuyện với tôi khá lâu dù là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau và tôi chỉ là loại tép riu so với anh, một nhà thơ nổi tiếng về tài nghệ và nhân cách. Thỉnh thoảng anh cười ha hả, đọc thuộc lòng mấy câu tiếng Pháp của các danh nhân. Một con người thực sự trí tuệ - tôi nghĩ. Lần sau đến đây, anh đưa cho tôi lời tựa của anh viết trên mặt sau một tờ lịch bloc khổ to. Bài viết rất ngắn, chữ to, nét chữ nguêch ngoạc, không một chỗ sửa chữa – lối viết của những bậc thầy trong nghề văn, hạ bút một lần là xong. Tôi đọc đi đọc lại, thấy không một chữ nào thừa; chữ nào cũng có sức nặng, để lại cho người đọc sự khâm phục một tài năng. Không ai có thể viết hay hơn, súc tích hơn ! Tôi rụt rè hỏi, sao anh viết hay thế ? Anh cười: Mình nghĩ mãi rồi mới viết. Thế đấy, lao động của một tài năng đâu phải thứ dễ dàng mà có. Sau này thấy anh tự nhận là “Phu Chữ”, tôi càng hiểu sự khiêm tốn của một thiên tài. Anh cũng như cụ Nguyễn Tuân, là bậc thầy về ngôn từ tiếng Việt; chỉ khác là cụ Nguyễn viết văn xuôi, còn anh vừa viết văn vừa làm thơ.

Giờ đây mỗi lần nhớ đến Anh, tôi càng thấm thía lời của Văn Thành: anh Lê Đạt là một nhà văn hóa.

 

Gần ông, thấy mình phải thiện hơn

Lý Trực Dũng

Kể từ khi trở thành cộng tác viên của Tạp chí Tia Sáng từ vài năm nay, tôi mới may mắn được quen biết nhà thơ Lê Đạt. Tôi thực sự ngạc nhiên trước sự thông thái quá sức tưởng tượng của ông và sung sướng mỗi khi có dịp được ngồi nghe ông nói chuyện thi ca, triết học, nghệ thuật, khoa học, xã hội... với các anh Nguyên Ngọc, Phạm Duy Hiển, Nguyễn Quân... Một ngày trước chuyến đi Tây Nguyên, trong phòng làm việc của anh Văn Thành, tôi còn nghe ông nói về nhạc của Bach, Beethoven... rồi Chanson của Edith Piaf. Ông hứng lên đọc vài câu ca từ trong một bài hát của nữ hoàng âm nhạc này. Tôi quá thích vì họ là những nhạc sĩ, ca sĩ mà tôi hâm mộ nhất.

Đầu tháng Ba năm nay, nhà thơ Lê Đạt cùng một số anh chị trong gia đình Tia Sáng lên chơi ở nhà sinh thái của tôi trên Kỳ Sơn, Hòa Bình. Mọi người vui vẻ đi dạo quanh được một lúc, bỗng anh Văn Thành đang đi cùng nhà thơ gọi tôi: “Dũng ơi, chú Đạt khen nhà này của em là nhà của đứa có học”. Nhìn nhà thơ đang cười, tôi chống chế: “Anh Đạt thương em thì khen vậy thôi chứ có học gì em”... Lúc này nghĩ lại những chuyện đó, tôi không sao cầm nổi nước mắt...

Mấy ngày rồi tôi cứ nghĩ vì sao nhà thơ Lê Đạt có sức hấp dẫn, cuốn hút giới trí thức và được mọi người kính trọng, yêu quý đến như vậy? Trí tuệ uyên bác? Sự cay đắng của “những năm tháng ấy”? Sự nhân hậu và lòng vị tha? Chắc là vì tất cả những điều đó và còn nhiều, rất nhiều những điều khác nữa. Điều đọng lại sâu nhất trong tôi là sự bình dị, chân thật của ông. Với một người mới quen như tôi mà ông không hề câu nệ, đối xử như một đứa em. Tôi chưa bao giờ nghe ông nói một câu nào, dù chỉ ám chỉ, oán trách những gì mà một con người tầm như ông đã phải chịu đựng trên hơn 30 năm trời. Tôi bỗng nhận ra rằng, gần ông, mình thấy mình phải trở nên thiện hơn...

Nhà thơ lớn Lê Đạt đã ra đi nhưng mãi còn đó nụ cười đôn hậu của ông, một nhân cách lớn khó có trên cõi đời nay.

Hà Nội 25-4-2008

        

         

© Copyright Lê Đạt